Thời kỳ đầu trị vì Lương_Vũ_Đế

Thời gian trị vì ban đầu của Lương Vũ Đế được đánh giá là giai đoạn đỉnh cao của triều Lương. Ông được xem là một quân chủ mẫn cán và tiết kiệm, và ông đã cố gắng khuyến khích các hạ thần bảy tỏ ý kiến khác biệt so với mình. Lương Vũ Đế thấy hai Nam triều Tống-Tề vì tàn sát lẫn nhau trong hoàng tộc mà bị diệt nên chủ trương hết sức khoan dung trước tội của các thành viên trong hoàng tộc, cũng như của các đại thần mà ông thấy đã có đóng góp cho việc kiến lập triều Lương. Khi có thành viên trong hoàng tộc phạm tội, Lương Vũ Đế chỉ dùng lời lẽ để khuyên bảo chứ không xử phạt. Thái độ khoan dung này của ông đã khiến nạn hủ bại tại Lương ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Lâm Xuyên vương Tiêu Hoành là một người rất tham lam, ra sức thu vét tài sản, trong vương phủ có mấy chục gian kho, lúc nào cũng khóa kín. Có người nghi ngờ rằng trong đó có chứa vũ khí nên đã cáo giác với Lương Vũ Đế rằng Tiêu Hoành cất giữ vũ khí định làm phản. Lương Vũ Đế liền tự dẫn cấm quân đến khám xét, thấy vậy Tiêu Hoành trở nên sợ hãi, khiến Lương Vũ Đế càng thêm nghi ngờ. Lương Vũ Đế liền hạ lệnh mở hết các kho ra khám, phát hiện trong hơn 30 gian kho đều chứa đầy tiền đồng, tất cả có 300 tỷ quan,[4] ngoài ra còn có rất nhiều vải, lụa, tơ, bông và các thứ khác. Tuy nhiên, Lương Vũ Đế chẳng những không trách tội, mà do thấy Tiêu Hoành không có ý làm phản nên càng tín nhiệm hơn trước.

Vũ Đế cũng là hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Nam triều ban quyền lực của thừa tướng cho các hạ thần được chỉ định trong khi họ không có chức vụ này. Trước tiên, ông ban các quyền lực này cho Phạm Vân, và sau khi Phạm Vân qua đời vào năm 503, ông lại ban chúng cho Chu Xả (周捨) và Từ Miễn (徐勉), thậm chí đã không có ai chính thức mang một chức quan cao cấp cho đến cuối sự nghiệp chính trị của họ.

Hai mối đe dọa cấp thiết mà Lương Vũ Đế phải đối phó khi lên ngôi: Trần Bá Chi nổi dậy do người này cảm thấy không an toàn mặc dù Lương Vũ Đế vẫn cho phép ông ta làm Giang châu thứ sứ, Lưu Quý Liên (劉季連)- thứ sử của Ích châu (益州, nay là Tứ XuyênTrùng Khánh) nổi dậy cũng vì nỗi lo sợ tương tự. Tuy nhiên, vào mùa đông năm 502, tướng Vương Mậu (王茂) của Lương Vũ Đế đã đánh bại Trần Bá Chi và buộc người này phải chạy trốn sang Bắc Ngụy. Vào mùa xuân năm 503, Lưu Quý Liên đã đầu hàng tướng Đặng Nguyên Khởi (鄧元起) của Lương Vũ Đế, Nam triều đã được bình định.

Tuy nhiên, vào mùa thu năm 503, với hy vọng đưa Tiêu Bảo Dần về phục quốc Nam Tề làm nước phụ dung, Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế đã trao quân cho Tiêu Bảo Dần và Trần Bá Chi, và còn phái Nhâm Thành vương Nguyên Trừng (元澄) dẫn quân đi đánh Lương, bắt đầu một cuộc chiến tranh kéo dài vài năm. Mặc dù cả hai bên đều giành được các trận thắng, song Lương đã để mất trọng thành Nghĩa Dương (義陽, nay thuộc Tín Dương, Hà Nam) vào mùa thu năm 504. Và đến mùa xuân năm 505, tướng Hạ Hầu Đạo Thiên (夏侯道遷) đã nổi dậy và dâng một thành biên giới quan trọng khác là Nam Trịnh (南鄭, nay thuộc Hán Trung, Thiểm Tây) cho Bắc Ngụy.

Sau đó, khi người cháu trai là Tây Xương hầu Tiêu Uyên Tảo (蕭淵藻) trong khi say rượu đã giết chết Đặng Nguyên Khởi, Lương Vũ Đế đã truy tặng Đặng Nguyên Khởi là "Chinh Tây tướng quân" song đã chỉ giáng Tiêu Uyên Tảo làm quan quân tướng quân. Đây là lần đầu tiên Lương Vũ Đế từ chối trừng phạt một thành viên hoàng tộc khi thành viên đó phạm phải một tội nghiêm trọng.

Năm 505, Lương Vũ Đế đã phái Tiêu Hoành dẫn quân tinh nhuệ tiến hành đại phản công Bắc Ngụy. Tuy nhiên, Tiêu Hoành vốn lo sợ nên đã cho dừng quân tại Lạc Khẩu (洛口, nay thuộc Bạng Phụ, An Huy) và từ chối tiến quân, bất chấp lời kêu gọi từ các bộ tướng. Trong khi đó, vào mùa xuân năm 506, tướng Vi Duệ đã có thể chiếm được Hợp Phì (合肥, nay thuộc Hợp Phì, An Huy) từ tay Bắc Ngụy. Quân của Tiêu Hoành đã đóng tại Lạc Khẩu gần một năm mà không tiến, vào mùa thu năm 506, do bị chứng dạ kinh tấn công nên Tiêu Hoành đã trở nên sợ hãi và chạy trốn, khiến quân của ông ta sụp đổ trong khi chưa đánh trận nào. Tuy nhiên, khi quân Bắc Ngụy tấn công vào thành Chung Li (鍾離, nay cũng thuộc Bạng Phụ), họ đã bị quân Lương dưới quyền Vi Duệ và Tào Cảnh Tông (曹景宗) đánh bại vào mùa xuân năm 507, Lương đã giữ được Chung Li và trên thực tế đã kết thúc chiến tranh. Sau trận Chung Li, hai bên vẫn có các xung đột biên giới, song đã không có chiến tranh quy mô lớn trong nhiều năm.

Năm 511, khi Lương Vũ Đế đang trên đường đến nơi tế thiên ở lân cận Kiến Khang, một lão nông đã chắn đường và kiến nghị rằng hình luật quá nặng nề với thường dân (đặc biệt là khi một người phạm tội bỏ trốn thì toàn thể họ tộc sẽ bị phạt khổ sai), trong khi lại quá nhẹ đối với các quý tộc và quan lại, vì thế Lương Vũ Đế tính đến chuyện sửa lại luật pháp. Tuy nhiên, cuối cùng, ông chỉ cho sửa đổi điều khoản trên thành các thành viên trong họ tộc của người phạm tội sẽ không bị buộc phải đi khổ sai nếu trong nhà có người già hay trẻ nhỏ, ngoài ra không có cải cách nào khác.

Từ năm 514 trở đi, Lương Vũ Đế bắt đầu tiến hành một dự án xây dựng to lớn: xây dựng một đập lớn trên Hoài Hà ở xuôi dòng từ Thọ Dương nhằm làm ngập lụt thành để quân Lương có thể chiếm được. Ông bắt đầu dự án bất chấp lời khuyên can từ các công trình sư của mình do nước Hoài Hà quá nhiều bùn đất. Tuy nhiên, bất chấp các khó khăn kỹ thuật, đập đã được tướng Khang Huyến (康絢) xây dựng thành công song đã cướp đi tính mạng của nhiều lao công do khối lượng công việc và bệnh dịch, (Tư trị thông giám đã mô tả là có 7 đến 8 phần bị chết). Nhiếp chính Hồ thái hậu của Bắc Ngụy đã phái tướng Lý Bình (李平) đến tấn công quân hộ tống của Khang Huyến, song đã không thể làm tổn hại đến đập, và cuối cùng đập đã hoàn thành vào mùa xuân năm 516. Đập được mô tả là dài khoảng 4,5 km, và quân lính có thể dựng trại ở trên mặt đập. Khang Huyến đã khéo léo duy trì đập, khiến Thọ Dương bị ngập lụt. Tuy nhiên, Lương Vũ Đế đã triệu hồi Khang Huyến về kinh thành và trao quyền phụ trách đập cho tướng Trương Báo Tử (張豹子). Trương Báo Tử không khéo léo và chu đáo bằng Khang Huyến nên đã không thể duy trì đập. Do mực nước của Hoài Hà tăng lên cao vào mùa đông năm 516, đập đã bị vỡ, khiến 10 vạn người ở hạ du thiệt mạng, còn Thọ Dương thì được cứu.